Làm thế nào để chọn quy trình ngăn chặn rò rỉ túi lọc?

2024-09-27

Như chúng tôi đã đề cập trước đó, có 3 quy trình cần tránhtúi lọcSự rò rỉ. Xử lý nóng chảy là phương pháp tốt nhất, chi phí thấp và hiệu quả chống rò rỉ tốt. Khi không thể sử dụng quy trình nóng chảy thì chúng ta nên chọn hai quy trình còn lại như thế nào? Lấy khí thải của các nhà máy điện đốt than làm ví dụ, phần sau đây đánh giá quy trình phủ và quy trình băng PTFE từ hai khía cạnh khả năng chịu nhiệt và khả năng chống ăn mòn axit, cung cấp tài liệu tham khảo cho việc lựa chọn các biện pháp ngăn ngừa rò rỉ túi lọc.


1 băng PTFE chịu nhiệt

Nhiệt độ khí thải của các nhà máy điện đốt than thường trên 100°C, trong một số điều kiện làm việc đặc biệt có thể đạt tới 170°C, nhiệt độ vận hành tức thời thậm chí có thể đạt trên 200°C. Túi lọc dùng trong nhà máy nhiệt điện cần có khả năng làm việc ở môi trường nhiệt độ cao. Để mô phỏng môi trường nhiệt độ cao trong điều kiện làm việc thực tế, các mẫu thử nghiệm có thông số kỹ thuật 5 × 5 cm được đặt trong lò nhiệt độ cao và sự thay đổi bề ngoài của chúng được quan sát sau khi xử lý nhiệt ở 200°C trong 24 giờ. Như được hiển thị trong Hình 2.1, từ việc so sánh các mẫu được xử lý bằng quy trình phủ keo và băng PTFE trước và sau khi xử lý ở nhiệt độ cao, có thể thấy rằng màu sắc bề ngoài của mẫu phủ keo hơi chuyển sang màu vàng nhạt, nhưng chất bịt kín được liên kết chắc chắn với nền vật liệu lọc; trong khi băng PTFE co lại đáng kể và các chất màu vàng đậm rõ ràng rỉ ra khỏi mép băng PTFE. Do đó, có thể giải thích rằng sự kết hợp giữa băng PTFE và đường may không dựa trên phản ứng tổng hợp nhiệt của PTFE và chất nền mà dựa trên độ bám dính của chất kết dính và loại chất kết dính này không phù hợp với môi trường nhiệt độ cao. .

Hình 1 Mẫu sau khi xử lý ở nhiệt độ cao (hình trên được phủ bằng keo và hình dưới là băng PTFE)


2 Chống ăn mòn axit

Lưu huỳnh được tạo ra khi đốt than, sau đó axit sulfuric có đặc tính ăn mòn mạnh được hình thành sau quá trình oxy hóa và tiếp xúc với nước, sẽ có tác dụng nhất định đối với chất bịt kín và băng PTFE dùng để bịt các lỗ kim. Để mô phỏng môi trường ăn mòn axit trong điều kiện làm việc thực tế, một mẫu thử có kích thước 5 x 5 cm được đặt trong dung dịch axit sulfuric 35% và quan sát những thay đổi đáng kể sau 24 giờ ngâm. Như trong Hình 2.3, mẫu được xử lý bằng chất kết dính không có sự thay đổi màu sắc rõ ràng sau khi tiếp xúc với dung dịch axit sulfuric và chất keo hơi dính, nhưng chất bịt kín có thể bám chắc vào nền của vật liệu lọc; mẫu thử được xử lý bằng băng PTFE bị bong ra sau khi tiếp xúc với dung dịch axit sunfuric và gần như tách ra khỏi đế của vật liệu lọc. Nguyên nhân có thể là do chất kết dính của băng PTFE không có khả năng chống ăn mòn axit nên dễ bị bong tróc. Do đó, sẽ thích hợp hơn khi sử dụng quy trình phủ keo trong các ứng dụng kỹ thuật trong đó băng PTFE dễ bị bong tróc trong môi trường ăn mòn axit mạnh, dẫn đến nguy cơ hỏng gioăng lỗ kim và rò rỉ bụi.

Samples after sulfuric acid treatment (the upper picture shows coated with glue, and the lower picture shows PTFE tape)

Samples after sulfuric acid treatment (the upper picture shows coated with glue, and the lower picture shows PTFE tape)

Hình 2 Các mẫu sau khi xử lý bằng axit sulfuric (hình trên là được phủ keo và hình dưới là băng PTFE)

Tóm lại, các so sánh thực nghiệm cho thấy khả năng chịu nhiệt và axit của quy trình phủ keo vượt trội hơn so với quy trình băng PTFE.


3. Phân tích trường hợp điển hình

Sau một năm sử dụng, túi lọc bằng băng PTFE của khách hàng gặp rất nhiều vấn đề.

Chúng tôi nhận thấy rằngtúi lọccó một số chỗ băng PTFE phồng lên và bong tróc ở bên ngoài. Đây là lỗ kim, đầu túi, thân túi và đáy túi. Hình 3.1 cho thấy băng PTFE phồng lên ở thân túi. Băng dính bị phồng lên, rơi ra và để lại rất nhiều bụi bẩn bên trong. Khi chúng tôi nhìn nó dưới kính hiển vi, chúng tôi có thể thấy rằng bụi đã lan ra rìa của lỗ kim và đang đi vào lỗ kim cục bộ.

PTFE tape bulging in a part of the filter bag (the upper picture is the overall effect picture, the lower picture is a partial microscope magnified picture)

PTFE tape bulging in a part of the filter bag (the upper picture is the overall effect picture, the lower picture is a partial microscope magnified picture)

Hình 3.1 Băng PTFE phồng lên ở một phần túi lọc (hình trên là ảnh hiệu ứng tổng thể, hình dưới là ảnh phóng đại một phần kính hiển vi)

4 Kết luận

Túi lọc là thành phần cốt lõi của túi lọc,túi lọckhâu ở lỗ kim có thể xuất hiện rò rỉ bụi, để giảm nguy cơ rò rỉ bụi do khí thải quá mức, phải được nắm bắt từ nguồn sản xuất rò rỉ túi lọc để đáp ứng các yêu cầu của việc sử dụng túi lọc khâu nóng chảy ưa thích quy trình, khi không thể sử dụng quy trình nóng chảy để khâu, bạn có thể chọn sử dụng quy trình phủ keo và quy trình băng PTFE. Kết quả thực nghiệm cho thấy quá trình phủ keo có khả năng chịu nhiệt và chống ăn mòn axit tốt hơn so với quá trình phủ băng PTFE. Ngoài ra, có nguy cơ băng PTFE bị bong ra và bụi xâm nhập qua các lỗ kim trong các ứng dụng thực tế của băng PTFE. Vì vậy, khi không thể sử dụng quy trình nóng chảy, bạn phải chọn quy trình phủ keo chắc chắn, đáng tin cậy, việc lựa chọn quy trình băng PTFE phải cẩn thận.



X
We use cookies to offer you a better browsing experience, analyze site traffic and personalize content. By using this site, you agree to our use of cookies. Privacy Policy